Tên gọi khác: Bồ kết dại, táo nhân, bọ chét, cây muồng
Tên nước ngoài: White leadtree, jumbay, river tamarind, white popinac…
Tên khoa học: Leucaena leucocephala (Lam.) De Wit; Leucaena glauca Benth.
Họ: Trinh nữ (Mimosaceae)
Tổng quan
Tìm hiểu chung
Keo giậu có dáng cây nhỏ, cao vài mét, phân cành ngay từ gốc, vỏ thân màu nâu nhạt. Cành non hơi có cạnh, phủ lông mịn.
Lá kép hai lần hình lông chim, mọc so le, đầu nhọn, những lá phía dưới và phía trên thường nhỏ hơn.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá, có lông nhỏ màu trắng, tràng có 5 cánh thuôn hẹp ở gốc. Quả đậu, thẳng, dẹt và mỏng. Bên trong quả chứa 15–20 hạt, dẹt, nhẵn, cứng và có màu nâu sẫm.
Mùa hoa vào tháng 4–6, mùa quả ở tháng 7–9.
Ở Việt Nam, keo giậu thường mọc tự nhiên ở các vùng đồi hay được trồng ở vùng đồng bằng làm bờ rào.
Đây là cây ưa sáng, sống được trên nhiều loại đất, kể cả đất khô cằn. Cây có bộ rễ phát triển, chịu được khô hạn, mọc ở các tỉnh phía Bắc sẽ có hiện tượng rụng lá về mùa đông. Cây ra hoa nhiều, tái sinh tự nhiên từ hạt và cây chồi gốc sau khi bị chặt.
Bộ phận dùng
Bộ phận dùng làm thuốc của keo giậu là hạt. Khi quả chín, người ta sẽ thu hái vào mùa hạ – thu rồi đập lấy hạt, đem phơi hoặc sấy khô.
Đôi khi còn dùng rễ trong các bài thuốc.
Thành phần hóa học
Lá keo giậu chứa tanin, protein, axit glutamic, axit aspartic, leucin hoặc isoleucin. Lá còn có leucenin (leucenolm mimosin).
Hạt chứa 8,8% dầu béo màu xanh sẫm. Các axit béo gồm axit palmitic, axit stearic, axit behenic, axit lignocerie, axit linoleic…
Hạt chứa gôm, trong đó có D-glalactose và D-manose. Keo giậu có thể hấp thu selen từ đất rồi tích lũy ở hạt. Đã có ghi nhận hiện tượng ngộ độc ở những động vật dùng loại cây này làm thức ăn.